Feel free to go with the truth

Trang chủ / Nghiên cứu học tập / KINH NGHIỆM XÉT XỬ: BẢN ÁN PHÚC THẨM HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM VỤ ÁN “KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI”

KINH NGHIỆM XÉT XỬ: BẢN ÁN PHÚC THẨM HỦY BẢN ÁN SƠ THẨM VỤ ÁN “KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI”

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

[1] Ông Nguyễn Công N được Sở Lao động-Thương binh và Xã hội (Sở LĐ-TB&XH) tỉnh Sông Bé (tên cũ) giải quyết cho hưởng trợ cấp mất sức lao động kể từ ngày 01/09/1991 trở đi, tỷ lệ hưởng mất sức lao động (MSLĐ) là 52%, tương ứng với thời gian công tác (đã được quy đổi theo quy định) là 26 năm 10 tháng theo phiếu chứng nhận lương hưu và trợ cấp mất sức số 428001 ngày 25/10/1991.

[2] Tuy nhiên, sau đó, vào ngày 15/12/1991, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Sông Bé lại ban hành phiếu điều chỉnh trợ cấp MSLĐ của ông Nguyễn Công N, điều chỉnh tỷ lệ hưởng trợ cấp MSLĐ từ 52% đổi thành 41%, tương ứng với thời gian công tác là 15 năm 06 tháng.

Việc làm nói trên của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Sông Bé là không đúng vì cơ quan này không tính (chưa cộng nối) thời gian trong quân ngũ của ông Nguyễn Công N, (từ tháng 02/1968 đến tháng 12/1975 tại Tiểu đoàn 68, Sư đoàn 500), vào thời đương sự làm công nhân công ty cao su Bình Long.

[3] Vì vậy, sau khi tiếp nhận đơn kiến nghị của ông Nguyễn Công N và để bảo đảm quyền lợi cho ông Nguyễn Công N, vào ngày 07/01/2019, BHXH tỉnh Bình Phước ra văn bản số 10/BHXH-CĐBHXH, gửi Sở LĐ-TB&XH tỉnh Bình Phước, đề nghị xem xét cộng nối thời gian quân ngũ cho đương sự theo quy định.

Vào ngày 14/10/2019, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Bình Phước ra văn bản số 2020/SLĐTBXH-LĐVL hỏi ý kiến UBND tỉnh Bình Phước về việc xem xét, chấp thuận cộng nối thời gian công tác trong quân đội cho ông Nguyễn Công N.

Đến ngày 21/10/2019, UBND tỉnh Bình Phước có công văn số 3077/UBND-KGVX, chấp thuận cộng nối thời gian công tác trong quân đội, từ tháng 02/1968 đến tháng 12/1975, cho ông Nguyễn Công N. Tiếp sau đó, vào ngày 30/10/2019, UBND tỉnh Bình Phước có công văn số 3199/UBND-KGVX về việc điều chỉnh công văn số 3077/UBND-KGVX, xác định thời điểm hưởng mức điều chỉnh tỷ lệ MSLĐ cho ông Nguyễn Công N là tính từ tháng 10/2019.

Sau đó, vào ngày 08/11/2019 BHXH tỉnh Bình Phước đã ban hành quyết định số 02/QĐ-BHXH điều chỉnh chế độ MSLĐ của ông Nguyễn Công N, từ tỷ lệ hưởng 41% thành 52%, nhưng thời điểm điều chỉnh được tính kể từ ngày 01/10/2019 trở đi.

[4] Xét thấy việc giải quyết của Giám đốc BHXH tỉnh Bình Phước tại quyết định số 02/QĐ-BHXH ngày 08/11/2019 là chưa đúng, lý do như sau:

Điều 2 Quyết định 595/TTg ngày 15/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ đối với quân nhân, công an nhân dân khi xuất ngũ (có hiệu lực kể từ ngày ký) quy định như sau:

“Điều 2. Quân nhân, công an nhân dân chuyển sang làm việc tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp của Nhà nước, Đảng, đoàn thể thì hưởng lương theo công việc đảm nhiệm và không hưởng các khoản trợ cấp nói tại Điều 1. Thời gian công tác liên tục của quân nhân, công an nhân dân trước khi xuất ngũ được coi là thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội”.

Như vậy, ít nhất là kể từ ngày 15/12/1993 (ngày mà Quyết định 595/TTg có hiệu lực), thời gian trong quân ngũ của ông Nguyễn Công N (từ tháng 02/1968 đến tháng 12/1975 tại Tiểu đoàn 68, Sư đoàn 500), phải được tính (cộng nối) vào thời gian đương sự làm công nhân công ty cao su Bình Long và đương nhiên, ông Nguyễn Công N được hưởng chế độ MSLĐ với tỷ lệ là 52%.

[5] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người đại diện của Giám đốc BHXH tỉnh Bình Phước cũng thừa nhận như sau: về mặt lý thuyết, ông Nguyễn Công N có thể sẽ được hưởng chế độ MSLĐ với tỷ lệ là 52% từ năm 1993. Tuy nhiên, sở dĩ BHXH tỉnh Bình Phước chỉ tính cho ông Nguyễn Công N kể từ ngày 01/10/2019 (với tỷ lệ 52%) là vì hồ sơ của ông Nguyễn Công N không đầy đủ (BHXH tỉnh Bình Phước đã yêu cầu nhưng ông Nguyễn Công N không bổ sung đủ tài liệu để hoàn tất hồ sơ BHXH).

Xét thấy lập luận nói trên của người đại diện của Giám đốc BHXH tỉnh Bình Phước, là không đúng, lý do như sau:

  • Các tài liệu về thời gian trong quân ngũ, về thời gian làm công nhân công ty cao su Bình Long……của ông Nguyễn Công N đều đã có sẵn và thể hiện rất rõ ràng. Sự vướng mắc ở đây không phải là hồ sơ BHXH của ông Nguyễn Công N không hoàn chỉnh thủ tục (hành chính), mà ở việc BHXH tỉnh Bình Phước vận dụng văn bản pháp luật (đối với trường hợp của ông Nguyễn Công N) không đúng và không linh hoạt;
  • Ông Nguyễn Công N là quân nhân, tham gia chiến tranh (chống Mỹ), là người phải nhận được sự ưu tiên, so với những người khác, khi BHXH giải quyết chế độ cho họ. Điều này là chính sách chung của Nhà nước đối với quân nhân, công an nhân dân, khi xuất ngũ.

Trong quá trình BHXH tỉnh Bình Phước giải quyết về trường hợp của ông Nguyễn Công N, mặc dù chính đương sự đã viết bản cam kết ghi ngày 27/09/2019, trong đó có nội dung như sau: “….đồng ý và cam kết chế độ của tôi được hưởng từ tháng 10/2019 và tôi sẽ không có thắc mắc và khiếu nại gì về sau….”. Nhưng bản cam kết này phải được hiểu rằng các chế độ đãi ngộ mà Nhà nước áp dụng cho ông Nguyễn Công N, phải bảo đảm là đúng theo quy định của pháp luật, chứ không phải là sự áp dụng sai pháp luật, như đã phân tích.

[6] Như vậy, xét về nội dung, thì quyết định số 146/QĐ-BHXH ngày 24/04/2020 và quyết định số 02/QĐ-BHXH ngày 08/11/2019 của Giám đốc BHXH tỉnh Bình Phước, đều không đúng pháp luật.

Khoản 1 Điều 6 của Luật tố tụng Hành chính năm 2015 về việc xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan trong vụ án hành chính, quy định như sau:

1.Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Điều 193 của Luật tố tụng Hành chính về thẩm quyền của Hội đồng xét

xử quy định như sau:

1.Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

2.Hội đồng xét xử có quyền quyết định:

a) Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật; b)Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có); buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; đồng thời kiến nghị cách thức xử lý đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy;

c)Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố hành vi hành chính là trái pháp luật, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có); buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật”.

 Điều luật viện dẫn nói trên ràng buộc Tòa án rằng, khi xem xét những quyết định hành chính bị kiện, thì đồng thời phải xem xét những quyết định hành chính khác, tuy không bị kiện, nhưng có liên quan.

Trong vụ án này, về bản chất, quyết định hành chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của ông Nguyễn Công N, là quyết định số 02/QĐ-BHXH ngày 08/11/2019 và quyết định này chính là quyết định liên quan trực tiếp đến quyết định số 146/QĐ-BHXH ngày 24/04/2020 (quyết định bị kiện).

Nhưng khi xem xét, giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Công N, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét, giải quyết về quyết định 146/QĐ-BHXH ngày 24/04/2020 mà không xem xét, giải quyết về quyết định số 02/QĐ-BHXH ngày 08/11/2019. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm không thể sửa bản án sơ thẩm, cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

Bản án số: 68/2022/HC-PT

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan

Hỗ trợ online